Vào ngày 8 tháng 10 năm 2025, một nhóm nghiên cứu từ Viện Bệnh động vật lây truyền từ động vật sang người thuộc Đại học Cát Lâm và Nhóm Nghiên cứu Tân Cương đã công bố một nghiên cứu mới về virus gây bệnh tiêu chảy do dịch tả heo (PEDV) trên tạp chí *Frontiers in Veterinary Science*, trình bày một cách có hệ thống xu hướng dịch tễ, đặc điểm phân tử và những thay đổi về vị trí kháng nguyên của PEDV ở Trung Quốc từ năm 2022 đến năm 2025.
Điểm nổi bật của nghiên cứu
* Bao gồm 20 tỉnh thành trên khắp Trung Quốc, tổng cộng 2346 mẫu đã được xét nghiệm, với tỷ lệ dương tính với PEDV là 43,3%.
* Phân loại kiểu gen cho thấy G2c đã trở thành phân nhóm chủ đạo hiện nay.
* Nhiều đột biến đã được tìm thấy trong các vị trí trung hòa kháng nguyên chính của protein S (COE, SS2, SS6, 2C10).
* Một vị trí glycosyl hóa N tiềm năng mới (vị trí 302) lần đầu tiên được phát hiện ở chủng Tân Cương.
* Bảy vị trí kháng nguyên tuyến tính và hai vị trí kháng nguyên cấu trúc đã được dự đoán, cung cấp các mục tiêu mới để phát triển vắc-xin.
![]()
Nghiên cứu này chỉ ra rằng so với chủng vắc-xin cổ điển CV777, chủng đang lưu hành hiện tại chỉ chia sẻ 92,71%-94,99% sự tương đồng về nucleotide và amino acid trong protein S, cho thấy hiệu quả bảo vệ của các vắc-xin hiện có có thể đang suy yếu. Sự đột biến liên tục của virus ở các vùng kháng nguyên chính có thể làm trầm trọng thêm tình trạng trốn tránh miễn dịch.
Giới thiệu
PEDV là một loại coronavirus quan trọng đe dọa ngành chăn nuôi heo toàn cầu, gây tiêu chảy, nôn mửa và mất nước ở heo ở mọi lứa tuổi, với tỷ lệ tử vong cực kỳ cao ở heo con bú. Kể từ khi xuất hiện các biến thể có khả năng gây bệnh cao vào năm 2010, công tác phòng chống dịch bệnh của Trung Quốc đã phải đối mặt với những thách thức liên tục.
Nghiên cứu mới nhất này, do Giáo sư Mo Xiaobing và Nhà nghiên cứu Li Tianzeng cùng nhóm của họ tại Đại học Cát Lâm phối hợp với một nhóm nghiên cứu ở Tân Cương thực hiện, có quy mô mẫu lớn, phạm vi bao phủ rộng và phân tích cơ chế chuyên sâu. Nó thể hiện một thành tựu quan trọng trong lĩnh vực nghiên cứu PEDV vào năm 2025 và có độ tin cậy học thuật cao.
Kết quả nghiên cứu
1. Xu hướng dịch tễ học:
Tỷ lệ dương tính với PEDV chung ở Trung Quốc từ năm 2022 đến năm 2025 là 43,3%, với sáu tỉnh bao gồm Liêu Ninh, An Huy và Quảng Tây có tỷ lệ dương tính vượt quá 60%. Tân Cương, miền Nam Trung Quốc và Đông Bắc Trung Quốc là những khu vực có tỷ lệ mắc bệnh cao.
![]()
Hình 1. Nhiễm virus gây bệnh tiêu chảy do dịch tả heo (PEDV) và phân bố địa lý của nó ở những bệnh nhân tử vong vì tiêu chảy.
(A) Biểu đồ cột cho thấy tỷ lệ dương tính với PEDV ở mỗi tỉnh và biểu đồ đường thể hiện giới hạn trên và dưới của khoảng tin cậy 95%. (B) Phân bố địa lý của PEDV. Màu sắc từ xanh lục đến đỏ cho thấy tỷ lệ dương tính tăng dần.
2. Đặc điểm kiểu gen:
Trong số 15 chủng được giải trình tự, 1 chủng thuộc phân nhóm G1c, 4 chủng thuộc phân nhóm G2b và 10 chủng thuộc phân nhóm G2c, xác nhận rằng G2c đã trở thành phân nhóm chủ đạo.
![]()
Hình 2. Cây phát sinh loài của gen S PEDV
Ngôi sao năm cánh màu đỏ đại diện cho các trình tự thu được trong nghiên cứu này. Các màu khác nhau đại diện cho các kiểu gen khác nhau.
3. Biến đổi trình tự:
Độ tương đồng nucleotide và amino acid của gen S của chủng được giải trình tự và chủng vắc-xin cổ điển CV777 lần lượt chỉ là 92,71%-94,83% và 92,89%-94,99%. Các mức độ đột biến khác nhau đã được quan sát thấy ở các vị trí trung hòa kháng nguyên chính (COE, SS2, SS6, 2C10).
![]()
Hình 3. So sánh các vị trí kháng nguyên chính của protein S PEDV
Các vùng màu xanh lá cây, cam, xanh lam và vàng tương ứng với các vị trí kháng nguyên COE, SS2, SS6 và 2C10.
4. Đặc điểm vị trí kháng nguyên và glycosyl hóa:
Bảy vùng kháng nguyên được bảo tồn, bao gồm 31-54aa, đã được dự đoán. Một vị trí glycosyl hóa N mới tại vị trí 302 (NKTI) đã được tìm thấy trong chủng PEDV/XinJiang/2. Sự vắng mặt của các vị trí glycosyl hóa ở một số chủng có thể liên quan đến việc trốn tránh miễn dịch.
![]()
Hình 4. Kết quả dự đoán các vị trí glycosyl hóa N đặc hiệu tiềm năng trong protein S của 15 chủng PEDV và chủng vắc-xin.
Trục tung biểu thị tên chủng và trục hoành biểu thị vị trí amino acid. Các vùng màu xanh lam cho biết glycosyl hóa N giống hệt nhau tại cùng một vị trí amino acid và các vùng màu đỏ cho biết sự khác biệt.
![]()
Hình 5. Trực quan hóa các vùng được bảo tồn của các vị trí liên tục trong trạng thái trimer tự nhiên của protein S.
(A) Sắp xếp trình tự amino acid của chủng được giải trình tự và chủng vắc-xin trong vùng vị trí được dự đoán. (B–E) Trực quan hóa các vị trí kháng nguyên được bảo tồn. Các vùng màu xanh lam, xanh lục và trắng đại diện cho các chuỗi A, B và C của trimer protein S, tương ứng. Các hình cầu màu vàng cho biết các vùng vị trí kháng nguyên tiềm năng có điểm lớn hơn 0,7. (F) Phóng to các vị trí amino acid chính trên monomer protein S, trong đó các vùng màu đỏ đại diện cho các vị trí amino acid chính trên monomer protein S.
![]()
Hình 6. Trực quan hóa các vùng được bảo tồn của các vị trí liên tục trong trạng thái trimer tự nhiên của protein S.
(A) Sắp xếp trình tự amino acid của các chủng được giải trình tự và vắc-xin trong các vùng vị trí được dự đoán. (B–E) Trực quan hóa các vị trí kháng nguyên được bảo tồn. Các vùng màu xanh lam, xanh lục và trắng đại diện cho các chuỗi A, B và C của trimer protein S, tương ứng. Các hình cầu màu vàng cho biết các vùng vị trí kháng nguyên tiềm năng có điểm lớn hơn 0,7. (F) Phóng to các vị trí amino acid chính trên monomer protein S, với các vùng màu đỏ đại diện cho các vị trí amino acid chính trên monomer protein S.
Tóm tắt
Nghiên cứu này không chỉ cập nhật bản đồ dịch tễ học phân tử của PEDV ở Trung Quốc từ năm 2022 đến năm 2025, mà còn tiết lộ xu hướng biến đổi của các vị trí kháng nguyên chính và cơ chế trốn tránh miễn dịch.
Kết quả cho thấy các chủng vắc-xin hiện có (chẳng hạn như CV777) khác biệt đáng kể so với các chủng đang lưu hành, cho thấy cần phải phát triển các vắc-xin thế hệ tiếp theo dựa trên kiểu gen G2c để giải quyết những thách thức về phòng ngừa và kiểm soát do sự tiến hóa liên tục của virus gây ra.
Người liên hệ: Mr. Huang Jingtai
Tel: 17743230916